Thông Điệp

 

Caritas In Veritate – Yêu Thương Trong Sự Thật

 

của

Đức Thánh Cha Bin Đức XVI

 

Dẫn Nhập

 

Chương 1: Sứ Điệp của Thông Điệp về Việc Phát Triển của Các Dân Tộc

 

Chương 2: Việc Phát Triển của Con Người trong Thời Đại của Chúng Ta

 

Chương 3: Tình Huynh Đệ, Vấn Đề Phát Triển Kinh Tế và Xã Hội Dân Sự

 

Chương 4: Việc Phát Trin ca Con Người, Các Quyn Li và Nghĩa Vụ, Môi Trường

 

Chương 6: Việc Phát Triển của Chư Dân và Vấn Đề Kỹ Thuật

 

Kết Luận

 

 

Chương Năm

Vic Hp Tác ca Gia Đình Nhân Loi

 

53.       Mt trong nhng hình thc sâu xa nht ca nghèo khó người ta có th cm nghim thy đó là cnh cô lp. Nếu chúng ta nhìn kỹ hơn các loại nghèo khổ khác, bao gồm cả những hình thức nghèo khổ về vật chất, chúng ta thấy rằng chúng xut phát t cnh cô lp, t tình trng không được yêu thương hay t nhng khó khăn để có th yêu thương. Tình trng nghèo kh thường được xut phát t vic rung b tình yêu ca Thiên Chúa, bng khuynh hướng căn bn và thm thê ca con người trong vic khép mình li, nghĩ rng t mình đã đủ cho mình hay ch là mt s kin tm thường và phù du, mt “k l” trong mt vũ tr ngu nhiên. Con người tr nên xa l khi h l loi mt mình, khi h tách mình khi thc ti, khi h không nghĩ đến và tin tưởng vào mt nn tng [125]. Tt c nhân loi tr nên xa l khi đặt tin tưởng quá nhiu vào nguyên nhng d phóng ca con người, nhng ý h và nhng không tưởng sai lm [126]. Ngày nay, nhân loi tr nên giao tiếp vi nhau hơn trong quá kh: Cm quan chung v s gn gũi nhau này cn phi được biến đổi thành mi hip thông tht s. Vic phát trin ca các dân tc l thuc trước hết vào vn đề nhìn nhn rng nhân loi là mt gia đình duy nht cùng nhau làm vic trong mi hip thông chân thc, ch không phi ch là mt nhóm ca các ch th t nhiên sng bên nhau [127].

 

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ghi nhận rằng “thế giới này đang bị trục trặc vì thiếu suy nghĩ” [128]. Ngài nêu lên một nhận định, thế nhưng cũng bày tỏ một ước muốn, đó là cần một đường lối suy nghĩ mới để đạt tới một kiến thức tốt đẹp hơn về những hàm ý của vấn đề một gia đình duy nhất; việc giao liên giữa chư dân trên thế giới kêu gọi chúng ta hãy bắt đầu đường lối mới mẻ này, nhờ đó vấn đề hội nhập là những gì tiêu biểu cho tình đoàn kết [129] hơn là tình trạng bị trừ khử. Việc suy nghĩ theo kiểu này cần đến một thẩm định nghiêm cẩn sâu xa hơn về thứ loại của mối liên hệ. Đây là một công việc không thể đảm nhận bởi một mình các khoa xã hội học, vì cần có cả sự đóng góp của khoa thần học và siêu hình học nữa, nếu hiểu một cách thích đáng phẩm vị siêu việt của con người.

 

Là mt hu th có hn thiêng, loài người to vt được định hình nh nhng tương quan liên bn v. H càng sng đích thc nhng mi liên h này thì căn tính bn v ca h càng trưởng thành. Không phi là nh vic cô lp mà con người thiết lp giá tr ca mình, mà là nh vic giao tiếp mình vi người khác cũng như vi Thiên Chúa. Thế nên những mối liên hệ này có một tầm vóc thật quan trọng. Cả về các con người cũng đúng như thế nữa. Mt th kiến thc siêu hình v các mi liên h gia con người vi nhau bi thế mang li nhiu ích li cho vic phát trin ca h. Về vấn đề này, lý trí tìm thấy hứng khởi và hướng đi nơi mc khi ca Kitô giáo, mt mc khi cho thy cng đồng nhân loi không hút mt cá nhân, bng vic làm tiêu tan đi tính cách t động ca h, như tng xy ra nơi nhng hình thc khác nhau ca ch nghĩa độc tài toàn tr, trái li càng coi trng h vì mi liên h gia cá nhân và cng đồng là mt liên h gia mt tng th này vi mt tng th khác [130]. Như một gia đình không nhận chìm đi các căn tính của mỗi phần tử mình thế nào, và như Giáo Hội hoan hỉ trong mỗi “tạo vật mới” (Gal 6:15; 2Cor 5:17) được Phép Rửa tháp nhập vào Thân Thể sống động của mình, thế nào, cũng vậy, mi hip nht ca gia đình nhân loi không nhn chìm nhng căn tính ca các cá nhân, ca các dân tc và ca các nn văn hóa, nhưng làm cho chúng càng rõ nét đối vi nhau và liên kết chúng cht ch hơn nơi tính cht đa dng hp tình hp lý ca chúng

 

54.       Đề tài phát trin có th đồng hóa vi mi liên h bao gm ca tt c mi cá nhân và các dân tc trong mt cng đồng duy nht ca gia đình nhân loi, mt cng động được xây dng mt cách đoàn kết trên nn tng ca các th giá tr công lý và hòa bình ct yếu. Viễn ảnh này được chiếu giãi một cách mạnh mẽ nơi mối liên hệ giữa các Ngôi Vị Ba Ngôi trong một Bản Thể duy nhất. Ba Ngôi là một hiệp nhất tuyệt đối vì ba Ngôi Vị thần linh là một liên hệ thuần túy. Tính chất trong sáng hỗ tương giữa các Ngôi Vị thần linh là những gì hoàn toàn và mối liên hệ giữa mỗi Ngôi là những gì trọn vẹn, vì Ba Ngôi tạo nên một mối hiệp nhất chuyên biệt và tuyệt đối. Thiên Chúa muốn tháp nhập chúng ta vào thực tại hiệp thông này nữa: “để họ được nên một như chúng ta là một” (Jn 17:22). Giáo Hội là dấu hiệu và là dụng cụ cho mối hiệp nhất này [131]. Những mối liên hệ giữa con người qua giòng lịch sử không thể trở nên phong phú nếu không căn cứ vào kiểu mẫu thần linh này. Trong ánh sáng của mầu nhiệm được mạc khải về Chúa Ba Ngôi chúng ta đặc biệt hiểu được rằng việc thực sự cởi mở không có nghĩa là làm mất đi căn tính cá thể mà là một thứ liên thấu sâu xa. Điều này cũng thấy được từ những kinh nghiệm chung của con người về yêu thương và sự thật. Như tình yêu theo bí tích của đôi phối ngẫu liên kết họ một cách linh thiêng thành “một xác thịt” (Gen 2:24; Mt 19:5; Eph 5:31) và biến cả hai thành một mối hiệp nhất thực sự và liên hệ thế nào, cũng thế, một cách tương tự, chân lý liên kết các tinh thần và khiến cho cho các tinh thần này nghĩ tưởng một cách hòa hợp, bằng cách thu hút những tinh thần này như là một mối hiệp nhất đối với nó.

 

55.       Mc khi Kitô giáo v mi hip nht ca gia đình nhân loi bao hàm mt ý nghĩa siêu hình hc v “humanum – nhân loi” là ý nghĩa cht cha yếu t thiết yếu v liên h tính. Các nền  văn hóa và tôn giáo khác giảng dạy về tình huynh đệ và nền hòa bình và vì thế góp phần hết sức quan trọng vào việc phát triển toàn vẹn con người. Tuy nhiên, có một số thái độ về tôn giáo và văn hóa không hoàn toàn chấp nhận nguyên tắc yêu thương và chân lý, do đó, đi đến chỗ làm trì trệ, thậm chí làm cản trở việc phát triển đích thực của con người. Có một số nền văn hóa về tôn giáo trên thế giới ngày nay không buộc con người nam nữ sống trong mối hiệp thông, mà là chia cắt họ ra để tìm kiếm phúc hạnh cá nhân, một thứ phúc hạnh làm thỏa mãn những ước muốn về tâm lý. Ngoài ra, tình trạng đang phát triển “những đường lối” tôn giáo khác nhau, thu hút những nhóm nhỏ, thậm chí những cá nhân, cùng với chủ trương hòa đồng tôn giáo, có thể gây ra tình trạng tách biệt và phân rẽ. Mt tác dng tiêu cc kh dĩ ca tiến trình toàn cu hóa đó là khuynh hướng thiên v th ch trương hòa đồng tôn giáo này [132], bng vic khuyến khích các hình thc “tôn giáo”, thay vì mang dân chúng li vi nhau, làm cho h xa cách nhau và tách h khi thc ti. Đồng thời cũng có một số truyền thống tôn giáo và văn hóa cứ gắn chặt với những gì làm cho xã hội bị xương xẩu hóa với các nhóm xã hội cứng ngắc, với các niềm tin mê hoặc không tôn trọng phẩm giá con người, và với những thái độ nô dịch cho các quyền lực huyền bí. Trong các bối cảnh ấy, yêu thương và chân lý khó lòng được thể hiện, và việc phát triển chân thực bị cản trở.  

 

Đó là lý do, trong khi thật sự là việc phát triển cần đến các tôn giáo và văn hóa của những dân tộc khác nhau, thì vấn đề nhận thức cách thích đáng cũng cần không kém. T do tôn giáo không có nghĩa là trung lp v tôn giáo, cũng không có nghĩa là tt c mi tôn giáo đều bng nhau [133]. Cần phải nhận thức đối với việc đóng góp của các nền văn hóa và tôn giáo, nhất là về phía những ai nắm quyền lực chính trị, nếu cộng đồng xã hội muốn được xây dựng trong tinh thần tôn trọng công ích. Việc nhận thức như thế cần phải căn cứ vào các qui chuẩn bác ái và chân lý. Vì vic phát trin ca các con người và các dân tc đang gp nguy him mà vic nhn thc này cn phi lưu ý tơiù nhu cu lan ta và gm tóm, trong bi cnh ca mt cng đồng nhân loi thc s toàn cu. “Toàn th con người và tt c mi người” cũng là mt qui chun để thm định các nn văn hóa và tôn giáo. Kitô giáo, mt tôn giáo ca mt V Thiên Chúa có dung nhan con người” [134], cht cha chính cái qui chun này nơi nó

 

56.       Kitô giáo và các tôn giáo khác có th cng hiến vic đóng góp ca mình vào vic phát trin ch khi nào Thiên Chúa có được mt ch đứng trong lãnh vc công chúng, nht là liên quan ti nhng chiu kích văn hóa, xã hi, kinh tế đặc bit là chính tr ca lãnh vc công chúng này. Giáo hun v xã hi ca Giáo Hi được hình thành để đòi hi “vai trò làm công dân” cho Kitô giáo [135]. Việc chối bỏ quyền tuyên xưng niềm tin của con người nơi công cộng và quyền làm chứng cho những chân lý của đức tin nơi đời sống chung gây ra những hậu quả tiêu cực cho việc phát triển chân thực. Vic loi tr tôn giáo ra khi qun chúng – và, hoàn toàn ngược li, ch nghĩa duy bo th tôn giáo – đều cn tr vic gp g gia nhng con người cùng vi các đóng góp ca h cho tình trng tiến b ca con người. Đời sống quần chúng bị kiệt quệ hứng khởi của mình và chính trị chiếm vai chủ chốt và trở nên hung hãn. Các thứ nhân quyền có cơ nguy bị coi thường, hoặc vì chúng bị cướp lột cái nền tảng siêu việt của chúng hay vì quyền tự do cá nhân không được công nhận. Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa bảo thủ loại trừ đi tiềm năng của việc đối thoại tốt đẹp cũng như việc hợp tác hiệu năng giữa lý trí và niềm tin tôn giáo. Lý trí bao gi cũng cn phi được đức  tin thanh ty: điu này cũng đúng vi c lý trí v chính tr, mt th lý trí không được coi mình là toàn năng. Về phần mình, tôn giáo bao gi cũng cn phi được lý trí thanh luyn để cho thy b mt con người chân thc ca nó. Bt c vp gy nào xy ra trong cuc đối thoi này thì vic phát trin ca con người đều phi tr mt giá khng khiếp.

 

57.       Cuc đối thoi mang li hoa trái gia đức tin và lý trí ch có th làm cho hot động bác ái tr nên hiu năng hơn trong xã hi, và nó to nên cái cung cách thích đáng nht trong vic c võ vic hp tác huynh đệ gia thành phn tín ngưỡng và vô tín ngưỡng nơi vic h cùng nhau dn thân hot động cho công lý và hòa bình ca gia đình nhân loi. Trong Hiến Chế Mục Vụ Vui Mừng Và Hy Vọng, các vị nghị phụ của Công Đồng chủ trương rằng “thành phn tín ngưỡng và vô tín ngưỡng hu như đồng lot chp nhn rng tt c mi s trên thế gian này cn phi được hướng v con người như là trung tâm và tt đỉnh ca chúng” [136]. Đối vi thành phn tín ngưỡng thì thế gii này không xut phát t ngu nhiên mù quáng hay t cái hết sc thiết yếu mà là t d án ca Thiên Chúa. Đó là nhng gì khiến cho thành phn tín ngưỡng phi có nhim v liên kết n lc ca mình vi n lc ca tt c mi con người nam n thin chí, vi các tín đồ thuc các tôn giáo khác cũng như vi thành phn vô tín ngưỡng, nh đó thế gii này ca chúng ta mi có th hiu nghim đáp ng d án thn linh, ch sng vi nhau như là mt gia đình dưới ánh mt trông coi ca Thiên Chúa. Một biểu lộ đặc biệt của đức bác ái và một qui chuẩn hướng dẫn cho việc hợp tác huynh đệ giữa thành phần tín ngưỡng và vô tín ngưỡng thật sự là nguyên tắc phụ trợ [137], một thể hiện quyền tự do bất khả tách lìa của con người. Vic ph tr trước hết và trên hết là mt hình thc tr giúp cho con người nh s t động ca các cơ cu trung gian. Việc trợ giúp như thế được cống hiến khi cá nhân con người hay các nhóm người không thể tự mình hoàn thành một điều gì đó, và bao giờ nó cũng nhắm đến chỗ giải phóng họ, vì nó nuôi dưỡng tự do cùng với việc tham dự nhờ ở chỗ họ lãnh nhận trách nhiệm. Vic ph tr t ra tôn trng phm v cá nhân khi nhìn nhn nơi con người này mt ch th bao gi cũng có kh năng cng hiến mt cái gì đó cho người khác. Khi coi tính cách h tương như tâm đim ca nhng gì phi là mt con người, s ph tr là mt kháng t hiu nghim nht chng li vi bt c hình thc nào ca trng thái an sinh gm tóm mi s. Nó có thể chú trọng tới cả vấn đề phác họa những dự án đa diện – vì thế chú trọng tới tính chất đa dạng của chủ thể – cũng như tới việc điều hợp của các dự án ấy. Thế nên nguyên tắc phụ trợ đặc biệt xứng hợp với việc điều hành vấn đề toàn cầu hóa và việc điều khiến nó hướng tới việc phát triển con người chân thực. Để đừng sn xut ra mt th quyn lc hoàn vũ nguy him có mt bn cht chuyên chế bo ngược, vic qun tr vn đề toàn cu hóa cn phi có tính cht ph tr, mt th ph tr có vài tng lp ăn khp vi nhau và bao gm nhng mc độ khác nhau có th cùng nhau làm vic. Vấn đề toàn cầu hóa chắc chắn cần đến quyền bính, vì nó động thới vấn đề của một thứ công ích toàn cầu cần phải được theo đuổi thực hiện. Tuy nhiên, quyền bính này cần phải tổ chức một cách phụ trợ và phân tầng [138], nếu không muốn nó vi phạm tới quyền tự do và nếu muốn nó mang lại thành quả trong thực hành.

 

58.       Nguyên tc ph tr cn phi liên kết cht ch vi nguyên tc đoàn kết và ngược li, vì nguyên tc trước mà thiếu nguyên tc sau thì m đường cho ch nghĩa riêng tư xã hi, và nếu nguyên tc sau thiếu nguyên tc trước thì dn li cho th tr giúp xã hi trch thượng coi thường thành phn nghèo nàn thiếu thn. Lut chung này cũng cn phi rng rãi cu xét khi gii quyết nhng vn đề liên quan ti vic tr giúp phát trin quc tế. Việc trợ giúp như thế, bất kỳ ý định của thành phần cống hiến ra sao, đôi khi có thể đẩy dân chúng vào tình trạng lệ thuộc, thậm chí còn gây ra những trường hợp đàn áp ở địa phương và vấn đề bóc lột ở quốc gia lãnh nhận. Vic tr giúp kinh tế, để thc s đạt được mc đích ca nó, không được theo đui nhng mc tiêu ph. Nó cn phi được phân phát vi s tham gia chng nhng ca các chính quyn ca nhng x s lãnh nhn, mà còn ca các tác nhân v kinh tế địa phương cùng vi thành phn đi làm văn hóa trong xã hi dân s na, bao gm c các Giáo Hi địa phương.  Những chương trình cứu trợ cần phải gia tăng tính chất tham dự và hoàn trọn từ gốc rễ của nó. Thật vậy, nhng ngun li giá tr nht các x s nhn lãnh tr giúp phát trin là nhng ngun li v nhân bn, mt ngun li cht cha cái vn liếng thc s cn phi được tích lũy để bo đảm mt tương lai t lp thc s cho các x s nghèo kh. Cũng cần phải nhớ rằng, lãnh vc kinh tế, hình thc chính ca vn đề tr giúp cn thiết nơi các quc gia đang phát trin đó là hình thc cho phép và khuyến khích vic t t thm nhp các th sn phm ca h vào nhng th trường quc tế, nh đó nhng x s này có th hoàn toàn tham phn vào sinh hot kinh tế quc tế. Trong quá khứ rất thường xẩy ra là việc viện trợ góp phần tạo nên những thứ thị trường lẻ đối với các thứ sản phẩm của những xứ sở hiến tặng này. Điều này xẩy ra vì thường thiếu nhu cầu đích thực đối với những sản phẩm được đặt ra ấy: vì thế cần phải giúp các xứ sở như thế cải tiến những sản phẩm của họ và thích ứng một cách hiệu nghiệm hơn với nhu cầu hiện hữu. Ngoài ra, có những người sợ các hậu quả của việc cạnh tranh nơi việc nhập cảng các thứ sản phẩm – bình thường là các sản phẩm về nông nghiệp – từ các quốc gia nghèo về kinh tế. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng đối với các xứ sở như vậy thì tiềm năng quảng bá những sản phẩm của họ rất thường là những gì bảo đảm việc tồn tại của họ cả trong trường hợp ngắn hạn lẫn dài hạn. Vn đề mu dch quc tế cách chính đáng và bình đẳng nơi các sn phm v canh nông cn phi mưu ích cho hết mi người, c thành phn cung cp ln thành phn tiêu th. Vì lý do này, chng nhng cn phi thc hin vic hướng dn thương mi v vn đề sn xut loi này, mà còn thiết lp nhng qui định mu dch quc tế để nâng đỡ nó và tài tr hơn na cho vic phát trin để gia tăng kh năng sn xut ca các ngành k ngh y.

 

59.       Vic hp tác cho vn đề phát trin không được ch quan tâm ti chiu kích kinh tế: nó phi cng hiến mt cơ hi tuyt vi cho vic gp g gia các nn văn hóa và dân chúng. Nếu các phía tham gia vào vic cng tác v bên các x s phát trin v kinh tế – như có khi xẩy ra – không lưu ý ti căn tính văn hóa riêng ca mình hay ca người khác, hoc các th gia tr nhân bn làm nên căn tính này, thì h không th tham d vào mt cuc đối thoi có ý nghĩa vi thành phn công dân ca các x s nghèo. Nếu các x s nghèo, v phn mình, li ci m mt cách thiếu sáng sut và ba bãi đối vi hết mi th đề xut v văn hóa, h s không còn trong v thế đảm nhn trách nhim đối vi vic phát trin đích thc ca riêng mình na [139]. Các xã hi tân tiến v k thut không được xáo trn vic phát trin v k thut ca mình vi mt th nm gi ưu thế v văn hóa, trái li, cn phi tái khám phá nơi mình nhng th đức hnh thường b quên lãng giúp h có th trin n khp giòng lch s ca h. Các xã hi đang tiến hóa cn phi trung thành vi tt c nhng gì thc s là nhân bn nơi các truyn thng ca mình, tránh lánh khuynh hướng ph lp mình mt cách t động bng nhng động lc ca mt th văn minh k thut được toàn cu hóa. Nơi tt c mi nn văn hóa, có nhng gương mu v vn đề t hi đạo lý, một số thì bị cô lập, một số thì tương liên, như là mt th hin ca mt bn tính con người duy nht theo ý mun ca To Hóa; truyn thng ca s khôn ngoan v đạo lý này cho điu này như là lut t nhiên [140]. Lut luân lý ph quát này cung cp mt nn tng lành mnh cho tt c mi cuc đối thoi v văn hóa, tôn giáo và chính tr, và nó bo đảm rng vn đề đa nguyên muôn mt nơi tính cht đa dng v văn hóa là nhng gì không tách mình ra khi vic cùng tìm cu chân lý, thin ho và Thiên Chúa. Bởi thế, vic gn bó vi lut l được ghi khc nơi tâm can con người là điu kin tiên quyết cho tt c mi vic hp tác xây dng v xã hi. Hết mọi nền văn hóa đều có những gánh nặng nó cần phải được giải cứu và những bóng tối nó cần phải được thoát ra. Đức tin Kitô giáo, nh vic hi nhp vào các nn văn hóa và đồng thi siêu vượt hơn chúng, có th giúp chúng tăng trưởng trong tình huynh đệ và kết đoàn ph quát, cho vic tiến b ca vn đề phát trin toàn cu và cng đồng

 

60.       Trong vic tìm kiếm nhng gii pháp cho cuc khng hong kinh tế hin nay, vic cu tr v phát trin cho các x s nghèo kh cn phi được coi là phương tin hu hiu để to nên thnh vượng cho tt c mi người. Chương trình trợ giúp nào có thể nắm giữ những viễn ảnh tăng trưởng khả quan như thế – cho dù theo quan điểm của nền kinh tế thế giới – như một thứ nâng đỡ cho thành phần dân chúng vẫn còn ở trong giai đoạn sơ khởi hay ban đầu của việc phát triển về kinh tế? Theo quan điểm ấy, các quốc gia càng phát triển về kinh tế lại càng cần phải làm hết sức mình để phân phối những phần lớn của tổng sản lượng nội quốc cho việc trợ giúp phát triển, nhờ đó tỏ ra tôn trọng những trách nhiệm cộng đồng quốc tế cần phải đảm đương về vấn đề này.  Mt trong nhng cách thc để thc hin điu này đó là kim đim li vic tr giúp xã hi cùng vi các chính sách v an sinh trong ni b ca mình, bằng cách áp dụng nguyên tắc phụ trợ và bằng việc tạo nên các hệ thống an sinh hội nhập với nhau cách tốt đẹp hơn, với sự tham dự chủ động của các cá nhân cũng như của xã hội dân sự. Nhờ đó, nó thực sự có thể cải tiến các thứ dịch vụ xã hội cùng những chương trình an sinh, đồng thời còn giữ được các nguồn lợi – bng vic loi tr tha thãi và loi b nhng th đòi hi gian ln là nhng gì by gi có th s dng vào tình đoàn kết quc tế. Một hệ thống được ủy thác và lớp lang hơn về tình đoàn kết xã hội, ít quan lại nhưng vẫn không kém phối trí, sẽ có thể giúp khai thác được nhiều sinh lực thầm lặng cho lợi ích của tình đoàn kết giữa các dân tộc.

 

Mt gii pháp kh dĩ cho vn đề tr giúp phát trin đó là vic áp dng mt cách hiu nghim nhng gì được coi là vn đề ph tr v tài chính, cho phép thành phn công dân quyết định cách thc phân phi mt phn ca các th thuế khoá h tr cho Chính Quyn. Nếu nó không thoái hóa thành việc cổ võ cho các thiện ích riêng biệt thì điều này có thể giúp kích thích các hình thức của tình trạng đoàn kết về an sinh từ bên dưới, với những thiện ích hiển nhiên ở lành vực đoàn kết cho việc phát triển nữa.

 

61.       Tình đoàn kết rng ln hơn tm cp quc tế đặc bit được thy theo chiu hướng liên tc c võ – thm chí gia cuc khng hong v kinh tế – phương tin nhiu hơn na cho vn đề giáo dc, mt vn đề giáo dc đồng thi cũng là mt điu kin tiên quyết thiết yếu cho vn đề hp tác quc tế cách hiu năng. Ch “giáo dc” ám ch chẳng những tới việc dạy học ở trường và việc huấn nghệ – cả hai đều là những yếu tố quan trọng nơi vấn đề phát triển – mà ti vic hình thành trn vn con người na. V vn đề này, có mt vn đề cn được nhn mnh, đó là, để giáo dc, cn phi biết bn tính ca con người, biết h là ai. Vn đề càng ngày càng thnh hành v mt th kiến thc có tính cht tương đối thuyết v bn tính này cho thy các vn đề trc trc trm trng đối vi vn đề giáo dc, nht là vn đề giáo dc v luân lý, gây nguy him cho chiu kích ph quát ca vn đề giáo dc v luân lý này. Chiu theo th ch nghĩa tương đối này làm cho hết mi người tr thành bn cùng hơn và to ra mt tác dng tiêu cc v tính cht hiu năng ca vic tr giúp cho thành phn túng thiếu nht, thành phn thiếu chng nhng phương tin kinh tế và k thut, mà còn c nhng phương pháp và ngun liu giáo dc để tr giúp dân chúng nhn ra trn vn tim năng nhân bn ca h.

 

Mt trưng dn v tm quan trng ca vn đề này được cho thy bi hin tượng du lch quc tế [141], mt th du lch có th là yếu t chính nơi vic phát trin v kinh tế và tăng trưởng v văn hóa, nhưng đồng thi nó cũng có th tr thành mt cơ hi khai thác và suy đồi v luân lý. Tình hình hiện nay đang cống hiến những cơ hội đặc biệt cho các khía cạnh phát triển về kinh tế – tức là vấn đề luân chuyển tiền bạc và việc xuất hiện của một số kinh doanh địa phương khả quan – cần phải được kết hợp với những khía cạnh về văn hóa, mà khía cạnh chính là vấn đề giáo dục. Trong nhiều trường hợp đó là những gì đang xẩy ra, thế nhưng, ở những trườnmg hợp khác, vấn đề du lịch quốc tế lại có một ảnh hưởng tiêu cực về giáo dục cả cho thành phần du khách lẫn dân chúng địa phương. Thành phn dân chúng địa phương thường b rơi vào nhng hình thc tác hành vô luân hay thm chí bi hoi, như trong trường hp ca cái được gi là du lch tính dc, th du lch mà nhiu con người b hy sinh thm chí vào tui non di. Tht là bun khi ghi nhn rng hot động này thường xy ra vi s h tr ca các chính quyn địa phương, vi s câm lng t nhng chính quyn thuc các x s gc gác ca thành phn du lch y, và vi vic đồng lõa ca nhiu thành phn hành ngh du lch. Thậm chí trong cả những trường hợp ít trầm trọng hơn, vic du lch quc tế thường theo đui mt kiu mu hưởng th và khoái thú, như là một hình thức thoát ly thực tế được hoạch định một cách thông dụng của các xứ sở gốc gác, và vì thế không có lợi cho việc gặp gỡ chính thực giữa con người và văn hóa. Thế nên, chúng ta cn khai trin mt kiu du lch khác có kh năng c võ vin hiu biết nhau, mà không ly mt yếu t nghĩ ngơi và gii trí lành mnh. Việc du lịch kiểu này cần phải được gia tăng, một phần nhờ việc điều hợp sát cận hơn với kinh nghiệm có được từ việc hợp tác và kinh doanh quốc tế cho vấn đề phát triển.

 

62.       Mt khía cnh khác ca vn đề phát trin toàn vn con người đáng lưu ý na đó là hin tượng di dân. Đây là một hiện tượng nổi nang về con số người ở trong cuộc, về những vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo do nó gây ra, và về những thách đố ghê gớm nó đòi hỏi các quốc gia và cộng đồng quốc tế. Chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang đối diện với một hiện tượng xã hội đáng làm thành lịch sử của kỷ nguyên này đang cần đến những chính sách vững mạnh vươn lên về việc hợp tác quốc tế nếu hiện tượng này được đương đầu một cách hiệu nghiệm. Nhng chính sách như thế phi được bt đầu t vic cht ch hp tác gia các x s gc gác ca người di dân vi nhng x s h đến ; nó cần phải được kèm theo bằng những tiêu chuẩn quốc tế thích đáng có thể điều hợp những hệ thống luật pháp khác nhau để bảo đảm những nhu cầu và những quyền lợi của cá nhân thành phần di dân cùng gia đình của họ, đồng thời cả những nhu cầu và quyền lợi của các quốc gia chủ nhà nữa. Không một quốc gia nào có thể cho rằng tự mình giải quyết được những vấn đề ngày nay. Tất cả chúng ta đều chứng kiến thấy được gánh nặng của khổ đau, của vấn đề chuyển dời và của những ước vọng được ấp ủ nơi đoàn lũ người di dân. Như mọi người đều biết, khó có thể giải quyết được hiện tượng này; thế nhưng có mt điu chc chn đó là các nhân viên ngoi quc, bt chp bt c khó khăn nào liên quan ti vn đề di dân, cũng góp phn quan trng vào vic phát trin kinh tế ca x s ch nhà nh vic lao nhc ca h, không k nhng gì h làm cho x s quê hương ca h bng vic gi tin v nước. Hin nhiên là không được coi thành phn lao công này như là mt th hàng hóa hay ch là mt th lc lượng làm vic. Bi thế, không được đối x vi h như bt c yếu t nào khác ca vic sn xut. Hết mi người di dân là mt con người, thành phn mà vì như thế, có nhng quyn li căn bn, bt kh tách bit là nhng gì cn phi được mi người tôn trng trong mi hoàn cnh [142].

 

63.       Không mt quan tâm nào v các vn đề liên quan ti vic phát trin mà li không nhn mnh ti mi liên h trc tiếp gia vn đề nghèo kh và vn đề tht nghip. nhiu trường hp, vn đề nghèo kh xut phát t vic vi phm đến phm giá ca vic làm nhân bn, hoc vì nhng cơ hi làm vic b hn chế (bởi vấn đề thất nghiệp hay kém việc làm), hay “vì coi thường vic làm cùng vi các quyn li t đó mà ra, nht là quyn có được mt s lương chính đáng và quyn được bo đảm an ninh cho cá nhân ca nhân viên cũng như ca gia đình ca h [143]. Đó là lý do, vào ngày 1/5/2000, nhân dịp Mừng Đại Năm Thánh của thành phần Lao Công, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phổ biến lời kêu gọi về “một liên minh toàn cầu thuận lợi cho ‘việc làm xứng đáng’” [144], ủng hộ sách lược của Tổ Chức Lao Công Quốc Tế. Như thế, ngài đã đẩy mạnh mục tiêu này, coi nó như là một ước vọng của các gia đình trong các xứ sở trên thế giới. Chữ “xứng đáng” liên quan tới việc làm ở đây nghĩa là gì? Nghĩa là vic làm th hin phm giá thiết yếu ca hết mi con người nam n theo bi cnh xã hi riêng ca h: vic làm được t do chn la, liên kết một cách hiệu nghiệm thành phần làm việc, cả nam lẫn nữ, với việc phát triển của cộng đồng họ; vic làm giúp thành phn làm vic có th được tôn trng và thoát khi bt c hình thc k th nào; vic làm giúp gia đình h có th tha đáng các nhu cầu của họ và cung cấp học vấn cho con cái họ, mà không bắt trẻ em phải tham gia lao công; vic làm giúp các người làm vic có th t do t chc li vi nhau hu phát biu tiếng nói ca h; việc làm giành đủ chỗ cho việc tái khám phá ra những gốc gác của con người ở tầm mức cá nhân, gia đình và thiêng liêng; việc làm bảo đảm cho những ai hồi hưu một tiêu chuẩn sống xứng đáng.

 

64.       Trong khi suy tư về đề tài việc làm cũng thích đáng để nhắc lại vấn đề quan trọng biết bao đó là nhng liên đoàn lao công – nhng t chc luôn được Giáo Hi khuyến khích và nâng đỡ – cần phải cởi mở trước những quan niệm đang hiện lên nơi thế giới việc làm. Bằng cách nhìn tới những quan tâm bao rộng hơn là loại lao động riêng biệt là những gì từ đó chúng được hình thành, các tổ chức liên hiệp được kêu gọi giải quyết một số những vấn đề mới nổi lên trong xã hội của chúng ta: tôi đang nghĩ đến, chẳng hạn, tính chất phức tạp của những vấn đề được các khoa học gia về xã hội diễn tả về mt cuc xung khc gia thành phn làm vic và thành phn tiêu th. Không nhất thiết phải tán thành luận đề là vấn đề tập trung vào vai trò của thành phần làm việc đã nhường chỗ cho vấn đề tập trung vào thành phần tiêu thụ, thì điều này vẫn xẩy ra để tạo nên cho những hiệp hội một điểm tựa mới trong việc thám hiểm một cách sáng tạo. Môi trường toàn cầu mà trong đó việc làm diễn tiến cũng đòi hỏi là các liên đoàn lao công quốc gia, thành phần có khuynh hướng giới hạn mình vào việc bênh vực những thứ thiện ích cho các phần tử trong danh sách của mình, cần phải hướng chú ý của mình tới những ai ở ngoài phần tử của mình nữa, đặc biệt là tới các công nhân ở các xứ sở đang phát triển đang bị vi phạm các quyền lợi xã hội. Việc bảo vệ cho các người làm việc ấy, một phần chiếm đạt được nhờ những khởi động nhắm tới các xứ sở gốc gác của họ, sẽ giúp cho các liên hiệp lao công có thể chứng tỏ những động lực chân thực về đạo lý và văn hóa trở thành khả dĩ giúp họ, ở một môi trường xã hội và lao công khác nhau, đóng một vai trò quyết liệt trong vấn đề phát triển. Giáo hun truyn thng ca Giáo Hi đã phân bit rõ ràng gia nhng vai trò và nhng phn hành tương ng ca các liên hip mu dch và chính tr. S phân bit này cho phép các liên hip nhn thy xã hi dân s như là mt môi trường thích đáng cho hot động cn thiết ca h trong vic bênh vc và c võ lao công, nht là thay cho nhng người lao động b khai thác và không có ai lên tiếng cho, thành phn mang thân phn vô phúc thường b coi thường trước con mt lơ là ca xã hi.  

 

65.       Bởi thế, vn đề tài chính – nhờ những cấu trúc được đổi mới và các phương pháp hoạt động đã được phác họa sau biến cố nó bị lạm dụng là những gì bắt nền kinh tế thực sự phải chịu tình trạng tàn phá như thế – giờ đây cn phi tr li vi vai trò làm mt th dng c nhm vào vic kiến to mi cho s thnh vượng và phát trin. Vì là nhng dng c, toàn th nn kinh tế và tài chính, ch không phi ch có mt s lãnh vc nào, cn phi được s dng mt cách đạo lý để to nên nhng điu kin thích hp cho vic phát trin ca con người cũng như cho vic phát trin ca các dân tc. Thật sự là cần thiết, và ở trong một số trường hợp lại còn bắt buộc, phải tung ra những khởi động về tài chính nhắm đến chiều kích nhân đạo. Tuy nhiên, điều ấy cũng không được làm lu mờ đi sự kiện là toàn thể hệ thống tài chính phải nhắm đến chỗ bảo trì vấn đề phát triển thực sự. Trước hết, ý hướng làm tt không được coi là không tương xng vi kh năng hiu lc để sn xut nhng sn vt. Các chuyên viên tài chính cn phi tái khám phá ra cái nn tng chân thc v đạo lý nơi hot động ca mình, để không lm dng nhng dng c tinh xo có th phn li vi các ích li ca thành phn giành dm. Ý hướng đúng đắn, tính cht liêm khiết, và vic tìm kiếm nhng thành qu tích cc là nhng gì tương hp vi nhau và không bao gi được tách khi nhau. Nếu tình yêu khôn ngoan thì nó có thể tìm thấy những đường lối hoạt động hợp với tính chất thiết thực dự phòng và chính đáng, như được sáng tỏ nơi cách thức đáng kể của nhiều kinh nghiệm về những tổ chức liên hiệp cho vay mượn. 

 

Cả qui luật của lãnh vực tài chính trong việc bảo đảm những bên yếu kém hơn và làm suy giảm việc đầu tư tích trữ xấu xa, lẫn việc thử nghiệm các hình thức mới về tài chính, được phác họa để nâng đỡ các dự phóng phát triển, là những kinh nghiệm tích cực cần phải được khai phá và khuyến khích thêm, đề cao trách nhiệm của của thành phần đầu tư. Ngoài ra, kinh nghim v vn đề tiu tài tr, một vấn đề được bắt nguồn từ ý nghĩ và hoạt động của thành phần nhân bản dân sự – tôi đang đặc biệt nghĩ đến cuộc phát xuất của vic cm đồcn phi được cng c và ci tiến. Đó là tt c nhng gì cn thiết hơn vào nhng ngày này khi nhng khó khăn v tài chính có th tr nên trm trng đối vi nhiu thành phn yếu kém trong dân chúng, thành phn cn phi được bo v khi nguy cơ nng lãi cũng như khi cm thy tht vng. Các phn t yếu kém nht trong xã hi cn phi được giúp đỡ để có th t v trước vn đề nng lãi, cũng như thành phn dân chúng nghèo kh cn được giúp đỡ để được li ích thc s t th vay nh này, nh đó làm suy yếu đi vic khai thác kh dĩ xy ra trong hai lãnh vc này. Vì các quc gia giu thnh cũng đang tri qua nhng hình thc nghèo kh mi mà vấn đề tiểu tài trợ có thể cống hiến việc trợ giúp cụ thể bằng cách tung ra những khởi động mới và mở ra những lãnh vực mới cho lợi ích của những yếu tố yếu kém hơn trong xã hội, thậm chí ở vào lúc sa sút chung về kinh tế này.

 

66.       Tính cht liên h toàn cu đã dn đến ch xut hin mt th quyn lc mi v chính tr, quyn lc ca thành phn tiêu th cùng vi các hip hi ca h. Đây là mt hin tượng cn phi được khai trin hơn na, vì nó cha đựng nhng yếu t tích cc cn được khích l cũng như nhng thái quá cn phi tránh lánh. Người ta cn nhn thc rng vic mua bán bao gi cũng là mt hành động luân lý, ch không ch nguyên kinh tế. Vì thế thành phn tiêu th có mt trách nhim xã hi đặc bit, mt trách nhim đi song song vi trách nhim xã hi ca vic kinh doanh. Thành phn tiêu th cn phi được tiếp tc giáo dc [145] v vai trò thường nht ca h, mt vai trò có th hành s bng s tôn trng các nguyên tc luân lý mà không làm suy gim cái hu lý ni ti ca kinh tế nơi tác động mua bán. ngành k ngh bán l, nht là vào nhng lúc như hin nay, khi mà kh năng mua bán đã tr nên suy yếu và dân chúng phi sng thanh đạm hơn, cn tìm tòi nhng đường li khác: chẳng hạn, những hình thức mua bán hợp tác như việc hợp tác của tiêu thụ viên là những gì đã từng được thực hiện từ thế kỷ thứ 19, một phần là nhờ sáng kiến của người Công giáo. Lại nữa, cũng là việc ích lợi trong vic c võ nhng đường li mi để qung bá các th sn phm xut phát t các min b ht hi trên thế gii, nh đó bo đảm cho thành phn sn xut ca h mt cuc tái tu xng đáng. Tuy nhiên, cần phải hội đủ một số điều kiện, đó là th trường cn phi thc s là liêm khiết; thành phần sản xuất, cũng như việc gia tăng các thứ dự trữ lợi lộc của họ, cũng cần phải huấn luyện ci tiến v kh năng và k thut chuyên nghip; và sau hết, vic mu dch kiu này không được tr thành con tin cho các ý h phe đảng. Vai trò sâu sc hơn đối vi thành phn tiêu th, bao lâu chính họ không bị mạo dụng bởi các hiệp hội không thực sự làm đại diện cho họ, là mt yếu t đáng ước momg đối vi vic xây dng nn dân ch v kinh tế.

 

67.       Trước việc gia tăng không ngớt của tình trạng liên thuộc toàn cầu, hết sc cn đến, thậm chí ngay cả ở giữa cuộc suy thoái toàn cầu, mt cuc tái canh tân T Chc Liên Hip Quc, cũng như các tổ chức về kinh tế cùng vấn đề tài chính quốc tế, nhờ đó quan niệm về gia đình của chư quốc có thể chiếm được ý nghĩa thực sự. Người ta cũng cảm thấy rt cn phi tìm được nhng đường li mi m để áp dng nguyên tc v trách nhim bo v [146] và v vic cng hiến cho các quc gia nghèo có được mt tiếng nói hu hiu trong vic quyết định chung. Điều này dường như cần thiết để có thể tiến tới một lãnh vực chính trị, pháp lý và kinh tế có thể gia tăng và chỉ vẽ hướng đi đến việc hợp tác quốc tế cho việc phát triển của tất cả mọi dân tộc trong tình đoàn kết.  Để điu hành nn kinh tế toàn cu; để phc hi các th kinh tế b chi vi trước cuc khng hong; để tránh bt c th suy thoái này ca cuc khng hong hin nay cùng vi nhng chênh lch to ln hơn t đó mà ra; để thc hin vic gii gii toàn vn và đúng lúc, tình trng an toàn v thc phm và hòa bình; để bo đảm vic bo v môi trường và chnh đốn vic di dân: đối vi tt c nhng vic làm này, hết sc cn phi có mt thm quyn chính tr thế gii, như vị tiền nhiệm của tôi là Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII đã đề cập tới ít năm trước đây. Mt thm quyn như vy cn phi được qui định bi lut l, liên l tuân gi các nguyên tc ph tr đoàn kết, tìm cách thiết lp công ích [147], và thc hin vic dn thân để bo đảm vic thc s phát trin toàn vn con người là nhng gì được tác động bi các th giá tr ca bác ái trong chân lý. Chưa hết, mt thm quyn như vy cn phi được toàn cu công nhn và được trao thc quyn để bo đảm an ninh cho tt c mi người, chú ý ti công lý và tôn trng các quyn li [148]. Dĩ nhiên là nó phi có thm quyn để bo đảm vic tuân hp vi các quyết định ca nó t tt c mi phn t, cũng như vi các bin pháp điu hp đã được các din đàn quc tế khác nhau. Thiếu điều này, cho dù tình trạng tiến bộ lớn lao gặt hái được ở một số những lãnh vực khác nhau, lut l quc tế cũng có cơ nguy b l thuc vào mc độ thăng bng v quyn lc ca nhng quc gia hùng mnh nht. Việc phát triển toàn vẹn của chư dân và việc hợp tác quốc tế cần đến việc thiết lập ở một tầm mức rộng lớn hơn nữa việc hướng dẫn quốc tế, được đánh dấu bằng tính chất phụ trợ, đối với việc điều hành vấn đề toàn cầu hóa [149]. Cả hai điều này cũng đòi phải thiết lập một trật tự xã hội nhắm đến chỗ tuân hợp với trật tự về luân lý, với sự liên hệ giữa lãnh vực luân lý và xã hội, cũng như với mối liên hệ giữa các lãnh vực chính trị và kinh tế cùng dân sự, như được Hiến Chương Liên Hiệp Quốc vạch định. 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/encyclicals/documents/hf_ben-xvi_enc_20090629_caritas-in-veritate_en.html

(nhöõng choã ñöôïc in ñaäm leân laø do töï yù cuûa ngöôøi dòch trong vieäc laøm noåi baät nhöõng ñieåm chính yeáu quan troïng)